Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011

HƯỚNG DẪN CUỘC THI VIẾT THƯ UPU LẦN 41

CUỘC THI VIẾT THƯ QUỐC TẾ UPU LẦN THỨ 41
Giải thưởng có giá trị lớn
Gửi bài dự thi về báo Thiếu niên Tiền phong
Bài thi gửi qua bưu điện phải dán tem

A. MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA
Liên minh Bưu chính Thế giới (gọi tắt là UPU) tổ chức Cuộc thi viết thư quốc tế dành cho trẻ em hằng năm, nhằm :
- Góp phần phát triển khả năng viết văn và sự phong phú trong tư duy sáng tạo của các em thiếu nhi.
- Tạo điều kiện thắt chặt tình hữu nghị giữa các dân tộc trong thế hệ trẻ.
- Giúp các em hiểu thêm về vai trò của ngành Bưu chính trong cuộc sống và phát triển xã hội.

B. ĐỀ TÀI CUỘC THI VIẾT THƯ QUỐC TẾ UPU LẦN THỨ 41
- “Hãy viết thư cho một vận động viên hoặc một nhân vật thể thao mà em ngưỡng mộ để nói Thế vận hội Olympic Games có ý nghĩa gì đối với mình” (Đề thi tiếng Anh: Write a letter to an athlete or sports figure you admire to explain what the Olympic Games mean to you).
- Chủ đề này được Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lựa chọn nhân dịp Thế vận hội OLYMPIC mùa Hè sẽ được tổ chức tại Thủ đô London của nước Anh từ ngày 27/7/2012 đến ngày 12/8/2012.

C. BAN TỔ CHỨC UPU 41 VIỆT NAM:
Cuộc thi do Bộ Thông tin - Truyền thông; Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam/Tổng công ty Bưu chính Việt Nam; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Y tế, TƯ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Báo Thiếu niên Tiền phong phối hợp tổ chức.
Trưởng ban: Ông Nguyễn Thành Hưng - Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
Phó trưởng ban:
- Ông Vũ Quang Vinh, Tổng Biên tập Báo TNTP (Phó Trưởng ban Thường trực)
- Bà Quản Duy Ngân Hà, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Thông tin và TrTh
- Bà Lê Thị Kim Hà, Phó Tổng Giám đốc - Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam
- Ông Dương Văn Bá, Phó Vụ trưởng Vụ Công tác HSSV, Bộ GD và ĐT
Và 17 ủy viên.

D. HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO:
Trưởng ban: Nhà văn Nguyễn Trí Huân, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.
Phó Trưởng ban: Nhà biên kịch Vũ Quang Vinh, Tổng Biên tập báo TNTP.
Các ủy viên :
Nhà báo Phạm Thành Long, nhà văn Lê Phương Liên, nhà thơ Định Hải, nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, nhà văn Trần Thiên Hương, nhà văn Tạ Duy Anh, nhà báo Nguyễn Đoàn, Thạc sĩ Chu Thị Hồng Loan.

E. GIẢI THƯỞNG:
1. Giải thưởng Quốc gia :
- Các thí sinh đoạt giải sẽ được công nhận danh hiệu Học sinh Giỏi cấp Quốc gia môn Ngữ văn tương ứng và được cộng điểm khi xét chuyển cấp.
- Các thí sinh đoạt giải Nhất, Nhì cấp Quốc gia được T.Ư Đoàn tặng Huy hiệu “Tuổi trẻ sáng tạo”.
- Các thi sinh đoạt giải Nhất, Nhì, Ba cấp Quốc gia được Ủy ban Olympic Việt Nam tặng Bằng khen.
- Ban Tổ chức sẽ hỗ trợ chi phí đi lại, ăn nghỉ cho các thí sinh đoạt giải Nhất, Nhì, Ba cấp Quốc gia (kèm hai người thân: phụ huynh, nhà trường) về Hà Nội dự lễ Tổng kết.
Giải cá nhân :
+ 1 giải Nhất: 5.000.000đ
+ 3 giải Nhì, mỗi giải: 3.000.000đ
+ 5 giải Ba, mỗi giải: 2.000.000đ
+ 30 giải Khuyến khích, mỗi giải: 1.000.000đ
Ngoài ra, còn có các giải phụ dành cho các thí sinh lọt vào vòng chung kết:
+ Giải dành cho thí sinh nhỏ tuổi nhất: 1.000.000đ
+ Giải dành cho thí sinh là người dân tộc:1.000.000đ
+ Giải dành cho thí sinh là người khuyết tật: 1.000.000đ
Giải tập thể :
Tặng trường có học sinh đoạt giải Nhất, Nhì, Ba, mỗi giải: Bằng khen của Bộ Thông tin và Truyền thông

2. Giải thưởng Quốc tế :
- Bức thư đoạt giải Nhất Việt Nam sẽ được Ban Tổ chức UPU TW gửi nguyên văn kèm theo bản dịch tiếng Anh hoặc tiếng Pháp để tham dự cuộc thi Quốc tế. Nếu đoạt giải cấp Quốc tế, sẽ được tặng thưởng:
- Giải Nhất: 30 triệu đồng
- Giải Nhì: 20 triệu đồng
- Giải Ba: 15 triệu đồng
- Giải Khuyến khích: 10 triệu đồng

- Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tặng Bằng khen cho thí sinh đoạt giải Nhất, Nhì cấp Quốc tế. Ban Tổ chức cũng sẽ đề nghị T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có hình thức khen thưởng phù hợp. Đặc biệt, thí sinh đoạt giải Nhất cấp Quốc tế sẽ được mời sang Trụ sở chính của UPU tại Bern, Thụy Sĩ nhận giải.

F. THỂ LỆ CUỘC THI :
1 .Điều kiện dự thi: Tất cả thiếu nhi, học sinh Việt Nam từ 15 tuổi trở xuống (từ lớp 5 đến lớp 10, năm học 2011-2012) đều được dự thi. Bài thi gửi qua đường bưu điện và dán tem bình thường.
2. Quy định về bài thi :
- Bài thi là một bức thư viết dưới dạng văn xuôi (chưa đăng báo hoặc in sách) dài không quá 800 từ (tối đa khoảng 3 trang giấy A 4).
- Các bài viết bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp phải có bản dịch sang tiếng Việt (BGK chấm bản tiếng Việt).
- Bài viết rõ ràng, sạch sẽ, viết tay trên một mặt giấy, ghi đầy đủ: Họ tên/ nam, nữ/ ngày tháng năm sinh/ dân tộc/ địa chỉ trường, lớp, huyện (thị), tỉnh (thành phố) hoặc địa chỉ gia đình (viết vào góc phải bên trên bài dự thi). Không nhận bài photo và bài viết trên máy vi tính. Ngoài phong bì ghi rõ: Dự thi UPU 41 - Năm 2012.
3. Nơi nhận bài thi: Báo Thiếu niên Tiền phong, số 05, Hòa Mã, Hà Nội.
4. Thời gian: Từ ngày phát động cuộc thi đến ngày 08-3-2012 (theo dấu bưu điện).
5. Lưu ý :
- Bài thi đoạt giải bản quyền thuộc về Ban Tổ chức.
- Bài ghi không đầy đủ các nội dung về lí lịch người dự thi sẽ bị loại.
Ban Tổ chức mong nhận được những bức thư hay và sáng tạo của các em học sinh từ khắp mọi miền đất nước.

BTC CUỘC THI UPU 41 CẤP QUỐC GIA




















HƯỚNG DẪN
CỦA BAN TỔ CHỨC CUỘC THI UPU 41 TẠI QUẬN GÒ VẤP
*******
I. HƯỚNG DẪN THỂ HIỆN NỘI DUNG ĐỀ TÀI
(BTC từng trường TH và THCS nghiên cứu kĩ lưỡng hướng dẫn sau đây, sau đó chọn lọc một số nội dung phù hợp với đối tượng dự thi để triển khai cụ thể tại đơn vị)
A. TƯ LIỆU THAM KHẢO VỀ THẾ VẬN HỘI (OLYMPIC GAMES):
Thế vận hội (hay Thế vận hội Thể thao Olympic) là cuộc tranh tài nhiều môn thể thao giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Thế vận hội gồm Thế vận hội mùa Hè và Thế vận hội mùa Đông được tổ chức xen kẽ nhau hai năm một lần (vào các năm chẵn). Nói cách khác, Thế vận hội mùa Hè (hoặc mùa Đông) được tổ chức bốn năm một lần. Đây là một đại hội thể thao không chỉ là cuộc đua sức về thể lực và thành tích TDTT mà còn mang ý nghĩa biểu trưng cho tinh thần đoàn kết, hòa bình của toàn nhân loại.
Thế vận hội bắt nguồn từ các cuộc thi đấu thể thao thời Hy Lạp cổ đại từ năm 776 trước Công nguyên cho đến khi Hoàng đế La Mã là Theodosius I cấm đoán vào năm 394 sau Công nguyên.
Thế vận hội hiện đại được Nam tước người Pháp Pierre de Coubertin tổ chức lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 19. Đại hội Thể thao Olympic, thường được gọi là Thế vận hội mùa Hè, được diễn ra cứ bốn năm một lần từ năm 1896 đến nay, trừ những năm diễn ra chiến tranh thế giới.
Thế vận hội mùa Đông được thành lập vào năm 1924 cho những môn thể thao mùa đông. Mới đầu nó được tổ chức cùng năm với Thế vận hội mùa hè, nhưng từ năm 1994, Thế vận hội mùa Đông và Thế vận hội mùa Hè diễn ra xen kẽ nhau hai năm một lần.
Thế vận hội Olympic hiện đại
Giới thiệu
Thế vận hội Olympic hiện đại bắt đầu vào năm 1896 tại thành phố Athens, Hi Lạp, hai năm sau khi nhà sư phạm và tư tưởng người Pháp - Pierre de Coubertin đề xuất rằng thế vận hội Olympic của người Hi Lạp cổ đại cần được hồi sinh để tôn vinh nền hòa bình thế giới.
Chương trình thế vận hội Olympic hiện đại năm 1896 chỉ có các môn thể thao mùa hè (vì Thế vận hội mùa đông mãi đến năm 1924 mới được tổ chức) có 300 vận động viên đến từ 15 nước, thi đấu 43 loại hình trong 9 môn thể thao khác nhau. Và đến Thế vận hội mùa hè năm 1996 tại Atlanta (Mỹ), đã có hơn 10.000 vận động viên đến từ hơn 190 nước, thi đấu 271 loại hình trong 29 môn thể thao khác nhau.
Ủy ban Olympic quốc tế
- Thế vận hội Olympic được quản lý bởi Ủy ban Olympic quốc tế (viết tắt là IOC), tổng hành dinh đặt tại Lausanne, Thụy Sĩ. IOC ra đời tại Paris năm 1894 như một Ủy ban độc lập và tự lựa chọn các thành viên cho mình (tuy nhiên để bắt đầu tiến hành, P. Coubertin đã tự chọn cho mình 15 thành viên). Hầu hết các thành viên được bầu chọn vào IOC là những cá nhân, đơn vị đã phục vụ trong NOCs (National Olympic Committees – Các ủy ban Olympic quốc gia ) tại chính quốc gia của thành viên đó.
- Chủ tịch IOC (được chọn từ các thành viên của IOC) được cộng tác bởi một ban lãnh đạo, nhiều phó chủ tịch và một số người của Hội đồng IOC. Chủ tịch đầu tiên của IOC là ông Demetrius Vikélas, người Hi Lạp (1894 -1896). Các chủ tịch tiếp theo là Count Henri de Baillet-Latour của Bỉ (1925-1942), J. Sigfrid Edström của Thụy Điển (1946-1952), Avery Brundage của Mỹ (1952-1972), Michael Morris, Lord Killanin của Ireland (1972-1980) và Juan Antonio Samaranch của Tây Ban Nha (1980- ).
Các vận động viên và tư cách tham dự
Mặc dù Hiến chương Olympic, luật chính thức của Ủy ban Olympic, tuyên bố rằng Olympic là cuộc thi giữa các cá nhân và không phải là giữa các quốc gia nhưng IOC lại phân công các NOC (Ủy ban Olympic quốc gia) có nhiệm vụ tuyển chọn riêng các đội tuyển Olympic quốc gia. Trong hầu hết các trường hợp, NOC làm điều này để nắm được các vận động viên đã trải qua kiểm tra để được thi đấu tại Thế vận hội hoặc để chọn những vận động viên dựa trên những thành tích mà họ đã đạt được trước đó.
Từ khi bắt đầu Thế vận hội Olympic đến nay, các vận động viên nữ không chuyên của mọi tôn giáo, dân tộc đều có đủ tư cách tham dự. Mặc dù ông Coubertin phản đối sự tham gia Thế vận hội của phụ nữ và không một phụ nữ nào thi đấu trong năm 1896, nhưng một số nhỏ vận động viên môn đánh gôn và quần vợt đã được thi đấu tại Thế vận hội năm 1900.
Các vận động viên nữ trong môn bơi lội và lặn được phép thi đấu tại Thế vận hội năm 1912, còn những môn như thể dục và điền kinh thì mãi đến năm 1928 họ mới được tham gia. Kể từ đó các môn thể thao Olympic của nữ phát triển đáng kể và hiện nay số lượng nữ vận động viên trong một đội đã chiếm đến khoảng phân nửa trừ một số đội đến từ các nước Ả-Rập Hồi giáo.
Nam tước Pierre De Coubertin và tổ chức IOC dự tính từ ban đầu là Thế vận hội Olympic chỉ dành cho những vận động viên nghiệp dư. Tính chất không chuyên được xác định bởi sự tôn trọng triệt để với luật không chuyên, một luật lệ có từ thế kỷ 19 làm nền tảng để ngăn không cho các vận động viên chuyên nghiệp tham gia trong các môn thể thao như bơi thuyền và quần vợt.
Bởi vì luật không chuyên ngăn cản các vận động viên kiếm được bất kỳ chi phí nào từ các hoạt động có liên quan đến thể thao nên các vận động viên thuộc tầng lớp bình dân khó mà đủ khả năng vừa kiếm sống vừa tập luyện để thi đấu. Tuy nhiên các luật lệ của thế vận hội về tính không chuyên vẫn là nguyên nhân của nhiều tranh cãi trong nhiều năm.
Những câu hỏi đã được đưa ra như một vận động viên không chuyên có thể được đài thọ chi phí cho chuyến đi thi đấu, được đền bù chi phí thời gian mất việc, được thuê để dạy các môn thể thao hay không. Và chúng luôn được IOC (tổ chức đứng đầu trong việc xác định tính chuyên nghiệp trong các một thể thao khác) giải quyết một cách thỏa đáng.
Năm 1983, đa số các thành viên của IOC đều chấp nhận hầu hết các vận động viên Olympic thi đấu một cách chuyên nghiệp với ý muốn rằng các môn thể thao là hoạt động chính của họ. Sau đó IOC đã hỏi lại mỗi ISF để xác định tính tư cách của chính môn thể thao và qua thập niên sau thì gần như tất cả các ISF đã bãi bỏ sự khác biệt giữa các vân động viên nghiệp dư và các vận động chuyên nghiệp, còn gọi là thế vận hội mở. Một trong những ví dụ điển hình của sự thay đổi là vào năm 1992 khi các vận động viên chuyên nghiệp đến từ Liên đoàn bóng rổ quốc gia (NBA - National Basketball Association) đã được phép thi đấu tại Thế vận hội mùa hè Barcelona, Tây Ban Nha.
Những nghi thức
Thế vận hội Olympic luôn có những nghi thức, phần nhiều trong số đó thể hiện chủ đề tình hữu nghị và hợp tác hòa bình giữa các quốc gia.
Lễ khai mạc Thế vận hội luôn luôn có cuộc diễu hành của các đội tuyển đến từ mỗi quốc gia tham dự tại sân vận động chính. Đội Hi Lạp luôn là đội đi đầu để kỉ niệm nguồn gốc xa xưa của Thế vận hội và đội nước chủ nhà luôn là đội đi sau chót.
Nghi lễ mở đầu là màn trình diễn tái hiện, hư cấu về Thế vận hội qua thời gian trong một khung cảnh phức tạp và hoành tráng với âm nhạc và lời thuyết minh. Một trong những nghi lễ quan trọng là cuộc chạy rước đuốc và lễ rước đuốc Olympic. Ngọn lửa Olympic tượng trưng cho sự chuyển giao những ý nghĩa cao đẹp từ Thế vận hội Hi Lạp cổ đại đến thế giới hiện đại. Ngọn đuốc Olympic được thắp sáng lần đầu tại Thế vận hội mùa hè năm 1936. Trong cuộc chạy rước đuốc, ngọn lửa được thắp sáng tại thành phố Olympia, Hy Lạp và từ đó nó được nhiều người chạy bộ (trừ đường sông, biển) mang đi trải qua nhiều tuần lễ hoặc nhiều tháng trời để đến thành phố nước chủ nhà.
Sau khi người rước đuốc cuối cùng đã thắp ngọn lửa Olympic lên ngọn đuốc chính tại sân vận động, vị nguyên thủ quốc gia của nước chủ nhà sẽ tuyên bố Thế vận hội bắt đầu và những con chim bồ câu trắng được thả ra để tượng trưng cho niềm hi vọng về một thế giới hòa bình.
Hai nghi thức đổi mới quan trọng khác đã xuất hiện sớm tại Thế vận hội Antwerp, Bỉ năm 1920 đó là một lá cờ Thế vận hội với năm vòng tròn có năm màu khác nhau trên nền trắng. Năm chiếc vòng tròn tượng trưng cho sự đoàn kết giữa các quốc gia năm châu: châu Phi, châu Mỹ, châu Á, châu Úc và châu Âu. Và kế đến là sự ra đời của nghi thức đọc lời thề Olympic, được đọc bởi một thành viên của đội chủ nhà . Lời thề xác nhận cam kết của các vận động viên về tinh thần thể thao cao thượng trong thi đấu.
Nghi lễ trao huy chương cũng là một phần quan trọng của Thế vận hội. Sau mỗi môn thi đấu cá nhân tại Thế vận hội, các huy chương được tặng thưởng, có 3 giải: Nhất, Nhì và Ba cho 3 người có thành tích cao nhất. Lễ trao huy chương diễn ra sau mỗi trận đấu chung kết của từng môn, các vận động viên thắng cuộc bước lên bục để nhận huy chương vàng (thực ra là huy chương mạ vàng), huy chương bạc (mạ bạc), và huy chương đồng, kế đến quốc kỳ các nước của họ được kéo lên trong tiếng nhạc quốc ca nghiêm trang cửa nước đoạt huy chương vàng. Một vài nhà phê bình đề nghị rằng vì những kỉ niệm chương dường như trái với tinh thần quốc tế mà IOC đã công bố. Những biểu tượng quốc gia nên thay bằng lá cờ Olympic và nhạc là bài hát chính thức của Olympic.
Ban đầu có một cuộc diễu hành khác của các quốc gia vào buổi lễ cuối cùng của Thế vận hội.Tuy nhiên tại Thế vận hội mùa hè vào năm 1956 tại Melbourne (Úc), các vận động viên đã tách khỏi hàng ngũ và đi lẫn vào nhau để kỉ niệm Thế vận hội. Truyền thống này đã được tiếp tục tại các kì Thế vận hội sau này. Khi các vận động viên đã vào hết trong sân vận động chính Olympic, chủ tịch IOC hẹn gặp lại các vận động viên và khán giả tại Thế vận hội lần sau. Sau đó, chủ tịch IOC tuyên bố kết thúc Thế vận hội và ngọn đuốc Olympic được tạm tắt.
Những buổi đầu
Sau khi thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Giải phóng Dân tộc (1821 - 1829) phá tan xiềng xích nô dịch của Đế quốc Ottoman, Hi Lạp đã tìm cách “hồi sinh” Thế vận hội Olympic thời xa xưa nhằm làm quảng bá các di sản cổ đại của họ.
Thế vận hội của họ - bị giới hạn ở phạm vi dân tộc Hi Lạp - đã không thành công, diễn ra không thường xuyên và thu hút rất ít sự chú ý của quốc tế. Thế vận hội bị đình chỉ hoàn toàn vào năm 1889. Nhưng sau đó, Nam tước Pierre De Coubertin đã thành công trong nỗ lực tái tổ chức Thế vận hội một cách đàng hoàng vì quan niệm của ông về Thế vận hội mang tính quốc tế hơn là mang tính dân tộc.
Mặc dù lúc bắt đầu công việc, bản thân Pierre De Coubertin quan tâm đến thể thao như một cách để nâng cao tính sẵn sàng chiến đấu của quân đội Pháp, nhưng cuối cùng ông đã hình dung chúng như một công cụ để chiến thắng các cuộc xung đột giữa các quốc gia.
Coubertin bắt đầu phát triển những ý tưởng của mình cho một cuộc thi đấu thể thao quốc tế trong những năm 1880. Năm 1894, ông mời đại diện thể thao các nước đến Paris để thảo luận về thể thao không chuyên tại một Đại hội thể thao quốc tế. Hội nghị có 78 đại biểu đến từ 9 quốc gia. Tại hội nghị, Coubertin đã dùng nghệ thuật và âm nhạc cổ điển để tạo ảnh hưởng với các đại biểu. Ông làm họ ngạc nhiên với đề xuất làm sống lại Thế vận hội Olympic của thời xưa và họ đã đồng ý ủng hộ. Coubertin muốn Thế vận hội Olympic hiện đại làm nổi bật các môn thể thao của cả thời xưa và hiện đại. Chẳng hạn như môn ném dĩa là biểu tượng cho sự tiếp nối của quá khứ vì người Hi Lạp cổ đại đã từng luyện tập thể thao.
Ngược lại, môn đua xe đạp là môn thể thao xuất hiện gần hơn nên đại diện cho thời hiện đại. Môn chạy marathon là để tưởng niệm một người lính Hi Lạp đã chạy bộ một mạch từ thị trấn mang tên Marathon đến Athens để báo tin quân Hi Lạp đã chiến thắng quân xâm lược Ba Tư, môn chạy này có khoảng cách ngắn hơn khoảng cách marathon thực sự là 42.2 km (khoảng 26.2 dặm). Đường đua dài nhất của Olympic cổ đại chỉ là khoảng 1000 m.
Sự bất ổn trong chính phủ Hi Lạp đe dọa sự chuẩn bị cho Thế vận hội năm 1896, nhưng Coubertin đã đến Athens và tranh thủ được sự ủng hộ giúp đỡ của hoàng gia Hi Lạp trong việc tổ chức Thế vận hội.
Mặc dù sau đó không có NOC để tuyển chọn các vận động viên và gửi họ đến Thế vận hội, nhưng nhờ Coubertin quen biết với nhiều nhà thể thao người châu Âu và châu Mỹ nên đã vận động họ thành lập các đội tuyển quốc gia tại nước mình. Lúc ấy, ước chừng một nửa số đội của châu Mỹ đến từ đại học Princeton vì ở đó có người bạn của Coubertin đang dạy môn lịch sử. Khoảng dưới 300 vận động viên đã thi đấu tại Thế vận hội năm 1896 và không nhận được sự quan tâm của báo chí quốc tế, nhưng lại đủ sức thuyết phục để IOC tiếp tục các Thế vận hội sau mỗi bốn năm.
Olympic Mùa Hè
Thế vận hội năm 1896 bao gồm các môn : đua xe đạp, đấu kiếm, thể dục, bắn cung, bơi lội, quần vợt, điền kinh, cử tạ và đấu vật. Các vận động viên người Mỹ chiếm ưu thế hơn hẳn tại Thế vận hội nhưng những thành tích của những người thắng cuộc không cao bởi những tiêu chuẩn đánh giá đương thời. Thomas Burke , người Mỹ là người chiến thắng trong cuộc chạy đua nước rút cự ly 100m trong 12 giây, tức là thấp hơn 1 giây so với kỷ lục thế giới. Bất chấp những thành tích còn hạn chế, Thế vận hội đã thành công tốt đẹp khi làm hài lòng khán giả và những người tham gia.
Sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cho Thế vận hội 1900 tại Paris và 1904 tại St.Louis, tiểu bang Missouri (Mĩ) đã làm Coubertin thất vọng, bởi vì cả hai kì Thế vận hội này bị coi như là những “hội chợ quốc tế” hơn là Olympic. Năm 1906, một Thế vận hội đã được tổ chức tại Athens, Hi Lạp, vượt qua mọi phản đối của Coubertin. Mặc dù Thế vận hội đã thành công nhưng những kết quả của nó không bao giờ được xem như là phần chính thức trong lịch sử Olympic.
Tại Thế vận hội Luân Đôn 1908 (Anh), công chúng đã chứng kiến cuộc đua tài quyết liệt giữa người Anh và người Mĩ, lên đến đỉnh điểm là khi những viên chức người Anh đã khiêng vận động viên chạy marathon người Ý Dorando Pietri qua vạch khi anh này đã bị té gần đích đến. Điều này có nghĩa là vận động viên người Mỹ Johnny Hayes không thắng được cuộc đua. Tuy nhiên, sau khi các viên chức Mĩ lớn tiếng phản đối, Hayes đã được tuyên bố là người thắng cuộc.
Bốn năm sau tại Thế vận hội 1912 ở Stockholm (Thụy Điển), vận động viên người Mỹ Jim Thorpe thắng cả hai môn điền kinh năm môn phối hợp và điền kinh mười môn để rồi chỉ nhận được những quyết định thu hồi huy chương vào năm 1913 chỉ vì anh ta đã từng chơi bóng chày bán chuyên nghiệp!!! (nhưng sau này vào năm 1982, IOC đã hoàn trả lại huy chương và chiến thắng chính thức cho Thorpe).
Môn bơi lội dành cho nữ lần đầu tiên được đưa vào tổ chức tại Thế vận hội năm 1912 và hai vận động viên người Úc là Fanny Durack và Wilhelmina Wylie đã chiếm ưu thế. Lãnh đạo ủy ban Olympic Mĩ James Sullivan đã không tán thành các môn thể thao nữ và không cho phép nữ công dân Mỹ thi đấu môn bơi lội tại Thế vận hội 1912 (họ chỉ được phép thi bơi bắt đầu từ 1920).
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) đã buộc Thế vận hội 1916 tổ chức tại Berlin, Đức phải hủy bỏ. Bốn năm sau, thông cảm với Bỉ, đất nước đã bị tàn phá nặng bởi sự xâm lăng của Đức trong thời gian chiến tranh, IOC quyết định tổ chức Thế vận hội tại Antwerp.
Năm 1920, vận động viên môn chạy người Phần Lan là Paavo Nurmi, biệt danh “người Phần Lan bay”, đã giành được 3 trong tổng số 9 huy chương vàng Olympic ở môn thi đấu của anh ta là chạy cự ly 1000 mét, chạy việt dã cá nhân và đồng đội.
Tại Thế vận hội Paris 1924, Nurmi và vận động viên bơi lội người Mỹ Johnny Weissmuller là những vận động viên nổi bật. Thành tích chính của Nurmi là thắng trong môn chạy cự ly 1500 mét và 5000 mét. Còn Weissmuller đã thắng ở môn bơi tự do 100 mét, 400 mét và cũng là người thắng trong môn bơi đồng đội 4 x 200 mét bơi tự do.
Thế vận hội Amsterdam, Hà Lan 1928 thì đáng chú ý nhất là sự có mặt của các môn điền kinh nữ. Mặc dù có một vài lời phàn nàn về môn chạy điền kinh cự ly 800 năm 1928 vì môn này hơi quá sức đối với nữ và bị hủy bỏ mãi cho tới năm 1960 mới tiếp tục.
Năm 1930 IOC quyết định tiếp tục thử nghiệm các môn thể thao nữ tại Thế vận hội. Nhờ quyết định này mà Babe Didrikson đã trở thành vận động viên nổi tiếng nhất tại Thế vận hội Los Angeles 1932. Chị đã thắng trong môn chạy vượt rào cự ly 80 mét và môn ném lao, lập kỷ lục thế giới mới ở hai môn này và đứng hạng hai trong môn nhảy cao. Còn các vận động viên môn bơi lội người Nhật đã giành được thành công vang dội tại Thế vận hội năm 1932. Nguyên nhân là do đội tuyển Nhật Bản được tập luyện lâu hơn và khắt khe hơn đối phương. Những thành công của họ đã chứng minh những lợi ích của việc thực hiện luyện tập thể thao toàn thời gian tốt hơn là tập bán thời gian kiểu nghiệp dư.
Dấu hiệu khác của sự thay đổi là Thế vận hội Los Angeles đã thành công với rất nhiều vận động viên có tuổi đời còn rất trẻ như: vận động viên bơi lội người Nhật Kusuo Kitamura đã thắng trong môn bơi tự do cự ly 1500 mét khi chỉ mới có 14 tuổi .
Tại Thế vận hội Berlin năm 1936 đã xảy ra sự kiện đặc biệt, đó là việc chính phủ Quốc xã của nước chủ nhà đã tuyên truyền học thuyết cho rằng người da trắng là mạnh nhất và câu chuyện hay nhất của Thế vận hội Berlin là vận động viên da đen người Mỹ Jesse Owens đã làm sụp đổ những tư tưởng của Đức Quốc Xã khi chiến thắng ở môn đua cự ly ngắn 100 mét, 200 mét và môn nhảy cao. Owens cũng đoạt luôn huy chương thứ tư là chạy tiếp sức cự ly 4 x 100 mét.
Cả hai kỳ Thế vận hội theo dự tính sẽ diễn ra tại Tokyo, Nhật Bản và Luân Đôn , nước Anh vào các năm 1940 và 1944 nhưng đều bị hủy bỏ vì Chiến tranh thế giới thứ hai đang diễn ra (1939-1945). Tuy nhiên Thế vận hội năm 1948 được tổ chức bất chấp sự do dự băn khoăn của nhiều thành viên IOC nghĩ rằng “những nỗi khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ hai đã gây ra sẽ làm trò cười cho thiên hạ về ước mơ thế giới hòa bình của Coubertin”. Tuy nhiên những người chủ trương tiếp tục duy trì Thế vận hội Olympic đã chiếm ưu thế và Luân Đôn trở thành chủ nhà.
Thế vận hội năm 1960, các vận động viên môn chạy người Châu Phi như : Wilson Kipriguit của Kenya và Abebe Bikila của Ethiopia đã giành được thành tích nổi trội tại Thế vận hội , trong khi đó các vận động viên đến từ Châu Âu lại chiếm ưu thế ở các môn như thể dục dụng cụ và cử tạ. Theo thứ tự mỗi kì Thế vận hội kế tiếp nhau trong những năm 1960 là các năm 1960 (Rome-Ý), 1964 (Tokyo-Nhật Bản) và 1968 (Mexico City- Mêhicô) đã tạo ra các vận động viên “vàng” trong môn quyền Anh của Mỹ mà đã tiếp tục trở thành những võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp hạng nặng như: Cassius Clay (sau này đổi tên là Mohamed Ali), Joe Frazier và George Foreman.
Tại thế vận hội Munich - Đức năm 1972, hai đội Đông Đức và Tây Đức trước đây vốn chung một đội (năm 1949 ) nay lại là hai đội riêng biệt đã giành được hạng ba và hạng tư trong bảng tổng sắp huy chương không chính thức. Mặc dù tại Thế vận hội năm 1972, vận động viên Xô Viết là Ludmilla Tourischeva đã thắng toàn diện môn thể dục dụng cụ nhưng một vận động viên Xô Viết khác là Olga Korbut lại thu hút nhiều chú ý nhất, chị đoạt ba huy chương vàng, điều này đã giúp khởi đầu một thời kì mới của sự phát triển quốc tế của môn thể dục dụng cụ. Bốn năm sau, tại Thế vận hội Montréal, vận động viên Nadia Comaneci của Rumani đã giành giải toàn diện trong môn thể dục dụng cụ và trong môn xà gồ, chị đã xuất sắc giành được điểm số tối đa là 10 điểm .
Thành tích nổi bật nhất tại Thế vận hội năm 1976 đến từ đội bơi lội nữ của Đông Đức, họ giành thắng lợi 11 trong 13 làn bơi, vượt qua cả người Mỹ vốn được cho là chiếm ưu thế. Trong tổng số huy chương tại Thế vận hội 1976 thì Đông Đức (tức CHDC Đức với dân số khoảng 16 triệu người giành được 40 huy chương vàng . Ngược lại, nước Mỹ với dân số hơn 200 triệu người chỉ giành được có 34 huy chương vàng.
Thế vận hội 1980 tổ chức tại Matxcơva và năm 1984 tổ chức tại Los Angeles đã bị những cuộc tẩy chay lớn (vì lý do chính trị), nên đội chủ nhà của mỗi nước đã quyết tâm tạo một chiến thắng lớn trong mỗi năm. Tại Thế vận hội 1980 với 62 quốc gia tuyên bố tẩy chay, đội Xô Viết đã giành được 80 huy chương vàng, 69 huy chương bạc và 46 huy chương đồng. Cũng tại Thế vận hội này vận động viên quyền Anh người Cuba là Téofilo Stevenson đã giành liên tiếp ba huy chương vàng ở hạng võ sĩ hạng nặng. Tại Thế vận hội 1984 khi Liên Xô và 16 nước khác tẩy chay Thế vận hội, thì đội Mỹ tuyên bố giành được 83 huy chương vàng, 61 huy chương bạc và 30 huy chương đồng. Tại đây, vận động viên người Mỹ Carl Lewis đã nổi lên như một vận động viên điền kinh vĩ đại nhất với chiến thắng ở các môn chạy cự ly 100 mét, 200 mét, 4 x 100 mét tiếp sức và nhảy xa. Nữ vận động viên người Mỹ là Lou Retton đoạt giải toàn diện trong môn thể dục dụng cụ. Tại Thế vận hội Seoul, Hàn Quốc, Carl Lewis lặp lại chiến thắng của mình trong môn nhảy xa và bị nhận huy chương vàng muộn ở môn chạy cự ly 100 mét sau khi vận động viên người Canada là Ben Johnson bị phát hiện có sử dụng chất ma túy.
Tại thế vận hội 1988, các vận động viên bơi lội Đông Đức, dẫn đầu là Kristin Otto đã giành chiến thắng 10 trong 15 môn dành cho nữ. Điều gây ấn tượng sâu sắc tương tự là vận động viên môn điền kinh người Mỹ Florence Griffith Joyner đã giành huy chương vàng ở môn chạy cự ly 100 mét, 200 mét, chạy tiếp sức 4 x 100 mét và Jackie Joyner Kersee đoạt huy chương vàng trong môn nhảy cao và điền kinh bảy môn phối hợp.
Thế vận hội Barcelona 1992 Tây Ban Nha không có riêng quốc gia nào thi đấu nổi trội nhất. Những vận động viên được biết nhiều nhất trước và sau Thế vận hội là Hoa Kì với đội bóng rổ có tên là Dream Team với các vận động viên của NBA như Michael Jordan, Larry Bird và Magic Johnson. Đội này đã thi đấu nổi bật và đạt thành tích là huy chương vàng .
Năm 1996, lễ kỉ niệm 100 năm sự ra đời của Thế vận hội hiện đại đã được tổ chức tại Atlanta, bang Georgia Hoa Kì. Có nhiều thành tích nổi bật tại Thế vận hội này. Ở môn bơi lặn, Fu Mingxia của Trung Quốc đã đoạt huy chương vàng ở thể loại ván nhúng 3 mét và bục nhảy 10 mét. Còn trong môn điền kinh, vận động viên người Mỹ Michael Johnson đã giành huy chương vàng ở môn chạy nước rút cự ly 200 mét và 400 mét. Trong khi đó, vận động viên người Canada Donnovan Bailey chiến thắng ở môn chạy nước rút cự ly 100 mét. Thế nhưng Thế vận hội đã nhuốm màu tang tóc khi một nhóm khủng bố tấn công khu kỉ niệm Thế vận hội Atlanta. Một quả bom đã phát nổ vào buổi sáng ngày 27 tháng 8 làm một người chết và hơn 100 người bị thương.
Những tiến bộ gần đây
Trải qua một thế kỉ với chiến tranh và xáo động chính trị, Thế vận hội Olympic đã đạt được nhiều thành công trong những năm gần đây, thu hút nhiều công chúng hơn và thu được nhiều tiền hơn. Phần nhiều của sự thu hút công chúng và giàu có là nhờ sự phát triển của những phương tiện liên lạc vệ tinh và các chương trình truyền hình toàn cầu.. Chẳng những càng ngày càng có nhiều người theo dõi Thế vận hội mà còn có nhiều cơ hội phát triển việc bán bản quyền truyền hình Thế vận hội với số tiền lên đến hàng trăm triệu đôla. Với các phần của thu nhập này, giờ đây các ủy ban tổ chức có thể tổ chức những thế vận hội hoành tráng mà không sợ phải gánh chịu những khoảng nợ khổng lồ giống như ủy ban tổ chức Thế vận hội Montréal Canada năm 1976. Có nhiều tiền hơn, IOC cũng có thể trợ cấp để phát triển các môn thể thao ở các quốc gia kém phát triển. Thế vận hội Olympic cũng trở nên lệ thuộc vào các công ty đa quốc gia vì các công ty này luôn sẵn sàng chi ra hàng triệu đôla để trở thành nhà tài trợ chính thức của thế vận hội và dùng biểu tượng của Thế vận hội để quảng cáo sản phẩm của họ. Điều này đã khiến cho hoạt động Thế vận hội Olympic bị thương mại hóa.
Một vấn đề nghiêm trọng khác là việc dùng thuốc để nâng cao thành tích trong thế vận hội (còn gọi là doping), đặc biệt là đồng hóa xteroit và hoóc-môn tăng trưởng của người. Các loại thuốc này bị cấm nhưng các vận động viên vẫn nghĩ rằng họ cần phải dùng chúng nếu phải thi đấu với trình độ Olympic. Sau khi nước Đức thống nhất vào năm 1990 , bằng chứng về những gì mà những người quan sát nghi ngờ được đưa ra là : hơn 20 năm qua , NOC của Đông Đức đã cung cấp thuốc nâng cao thành tích một cách có hệ thống cho các vận động viên chuyên nghiệp của họ. Từ 1968, IOC đã giải quyết vấn đề này bằng việc lập một Ủy ban chịu trách nhiệm trong việc phát hiện và phạt những người nào sự dụng các loại thuốc cấm đó. Nhờ những nỗ lực này mà nhiều vận động viên Olympic đã bị bắt và hủy bỏ tư cách tham dự Olympic, thế nhưng việc dùng các loại thuốc cấm vẫn không chấm dứt.
Năm 1999 ban lãnh đạo của IOC bắt đầu cải cách phương pháp lựa chọn các thành phố đăng cai Thế vận hội . Các thay đổi xảy ra sau khi có phát hiện nhiều quan chức của IOC đã vi phạm lời thề trong hiến chương Olympic bởi họ bị cho là đã nhận những khoản chi trả bằng tiền mặt và những món quà “bồi dưỡng” bất chính từ các thành phố tranh cử quyền đăng cai Thế vận hội. Các vi phạm đã xảy ra khi thành phố Salt Lake, Utah thắng lợi tại Thế vận hội mùa đông 2002. Và thành phố này vẫn được quyền đăng cai nhưng nhiều quan chức của Ủy ban tổ chức địa phương đã từ chức và nhiều người của IOC đã bị đuổi trong vụ bê bối.
Những hạn chế về các hạng mục tổ chức tại Olimpic
Mặc dù hiện nay, các môn TDTT được tổ chức thi đấu tại Thế vận hội vô cùng phong phú, đa dạng. Hầu hết các môn TDTT phổ biến trên hành tinh này đều đã được đưa vào chương trình thi đấu tại Thế vận hội Olympic.
Tuy nhiên, không phải môn nào cũng được tổ chức tại Olympic, ví dụ môn bóng bầu dục được toàn nước Mỹ ưa chuộng không có trong Olympic, hay môn võ thuật Trung Hoa.
Hiến chương Olympic quy định về các hạng mục được đưa vào Olympic là:
• Các hạng mục thi đấu chính thức trong Olympic phải được Ủy ban Olympic quốc tế thừa nhận, do Ủy ban Liên hợp thể thao từng hạng mục quản lý.
• Các nội dung thi đấu nam tại Olympic mùa hè cần được triển khai rộng rãi bởi 75 quốc gia và 4 châu lục. Còn các nội dung nữ cần được triển khai tại 45 quốc gia và 3 châu lục. Các nội dung tại Thế vận hội mùa đông cần phải được triển khai rộng tại ít nhất 25 quốc gia và 3 châu lục.
• Các hạng mục này cần được xác dịnh 7 năm trước khi Thế vận hội tổ chức. Xác định một ngày rồi thì không thay đổi nữa.
Lịch sử các kì thế vận hội hiện đại
Năm Tên Điạ điểm
1896 Thế vận hội mùa Hè 1896
Athens, Hy Lạp

1900 Thế vận hội mùa Hè 1900
Paris, Pháp

1904 Thế vận hội mùa Hè 1904
St. Louis, Hoa Kỳ (dự định tổ chức ở Chicago)

1908 Thế vận hội mùa Hè 1908
London, Anh

1912 Thế vận hội mùa Hè 1912
Stockholm, Thụy Điển

1916 Thế vận hội mùa Hè 1916
Berlin, Đức (hủy do chiến tranh)

1920 Thế vận hội mùa Hè 1920
Antwerp, Bỉ

1924 Thế vận hội mùa Đông 1924
Chamonix, Pháp

1928 Thế vận hội mùa Đông 1928
St. Moritz, Thụy Sĩ

1932 Thế vận hội mùa Đông 1932
Lake Placid, New York, Hoa Kỳ

1936 Thế vận hội mùa Đông 1936
Garmisch-Partenkirchen, Đức

1948 Thế vận hội mùa Đông 1948
St. Moritz, Thụy Sĩ

1952 Thế vận hội mùa Đông 1952
Oslo, Na Uy

1956 Thế vận hội mùa Đông 1956
Cortina d'Ampezzo, Ý

1960 Thế vận hội mùa Đông 1960
Squaw Valley, California, Hoa Kỳ

1964 Thế vận hội mùa Hè 1964
Tokyo, Nhật

1964 Thế vận hội mùa Đông 1964
Innsbruck, Áo

1968 Thế vận hội mùa Hè 1968
Mexico City, Mexico

1968 Thế vận hội mùa Đông 1968
Grenoble, Pháp

1972 Thế vận hội mùa Hè 1972
Munich, Tây Đức

1972 Thế vận hội mùa Đông 1972
Sapporo, Nhật Bản

1976 Thế vận hội mùa Hè 1976
Montreal, Canada

1976 Thế vận hội mùa Đông 1976
Innsbruck, Áo

1980 Thế vận hội mùa Hè 1980
Moscow, Liên Xô

1980 Thế vận hội mùa Đông 1980
Lake Placid, New York, Hoa Kỳ

1984 Thế vận hội mùa Hè 1984
Los Angeles, Califoria, Hoa Kỳ

1984 Thế vận hội mùa Đông 1984
Sarajevo, Nam Tư

1988 Thế vận hội mùa Hè 1988
Seoul, Hàn Quốc

1988 Thế vận hội mùa Đông 1988
Calgary, Alberta, Canada

1992 Thế vận hội mùa Hè 1992
Barcelona, Tây Ban Nha

1992 Thế vận hội mùa Đông 1992
Albertville, Pháp

1994 Thế vận hội mùa Đông 1994
Lillehammer, Na Uy

1996 Thế vận hội mùa Hè 1996
Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ

1998 Thế vận hội mùa Đông 1998
Nagano, Nhật Bản

2000 Thế vận hội mùa Hè 2000
Sydney, Úc

2002 Thế vận hội mùa Đông 2002
Salt Lake City, Utah, Hoa Kỳ

2004 Thế vận hội mùa Hè 2004
Athens, Hy Lạp

2006 Thế vận hội mùa Đông 2006
Torino, Ý

2008 Thế vận hội mùa Hè 2008
Bắc Kinh, Trung Quốc
Hồng Kông (môn Đua ngựa nghệ thuật)

2010 Thế vận hội mùa Đông 2010
Vancouver, British Columbia, Canada

2012 Thế vận hội mùa Hè 2012
London, Anh

2014 Thế vận hội mùa Đông 2014
Sochi, Nga

2016 Thế vận hội mùa Hè 2016
Rio de Janeiro, Brazil

2018 Thế vận hội mùa Đông 2018
Pyeongchang, Hàn Quốc


(Nguồn CongDong.Cz: http://congdong.cz/home/416/the-va-n-ho-i-olympic- ixzz1aR9bjFOH )

*** Thế vận hội OLYMPIC GAMES London, Anh quốc 2012
Ủy ban Thế vận hội 2012 tại London, Anh Quốc nêu ra tinh thần “Biến đất hoang thành miền kì diệu” (Turn wasteland into wonderland), nghe khá hấp dẫn dù còn phải chờ xem hiệu quả thực đến đâu.
Khám phá Olympic

Nhân Olympic London 2012 sắp diễn ra, hãy khám phá về Olympic và những sự kiện đáng nhớ của các kì Thế vận hội.
* Ý nghĩa lá cờ năm vòng tròn


Lá cờ năm vòng tròn lồng vào nhau. Lá cờ năm vòng tròn là một biểu trưng tiêu biểu của Olympic. Lá cờ tung bay mỗi khi Olympic đến. Lá cờ biểu trưng cho năm châu lục: màu vàng châu Á, màu xanh lục châu Âu, màu đen châu Phi, màu xanh lam châu Đại Dương, màu đỏ châu Mỹ. Năm vòng tròn đan vào nhau như sự bình đẳng giữa các quốc gia, các châu lục hay chính ý nghĩa của Olimpic.
* Khẩu hiệu Olympic
Năm 1921, Pierre de Coubertin, người sáng lập ra Olympic hiện đại đã mượn một thành ngữ Latin làm khẩu hiệu Olympic: Citius, Altius, Fortius (nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn).
* Lời thề Olympic
Trong buổi lễ khai mạc, một vận động viên sẽ thay mặt toàn bộ vận động viên đọc lời thề. Lời thề này do Pierre de Coubertin viết và được vận động viên môn đấu kiếm người Bỉ Victor Boin đọc lần đầu tiên vào Thế vận hội 1920. Lời thề có nội dung: “Thay mặt tất cả vận động viên, tôi hứa tất cả chúng tôi sẽ tôn trọng những luật chơi đề ra với tinh thần thể thao chân chính, vì vinh quang thể thao và danh dự của cả đội”.
* Ca khúc Olympic
Ca khúc Olympic sẽ được hát vang lên khi lá cờ Olympic được kéo lên. Ca khúc này được sáng tác bởi Spyros Samaras do Kostis Palamas viết lời. Lần đầu tiên ca khúc này xuất hiện tại Olympic Athens 1896 nhưng mãi đến năm 1957 mới được Ủy ban Olympic quốc tế công nhận.
* Kinh thánh Olympic
Pierre de Coubertin đã đưa ra ý tưởng này từ một bài diễn văn của Ethelbert Telbot tại Thế vận hội năm 1908. Kinh thánh Olympic có nội dung: "Điều quan trọng nhất của Thế vận hội không phải là giành chiến thắng mà là được tham gia, cũng như điều quan trọng nhất trong cuộc sống không phải là sự thành công mà là những thử thách cam go. Điều cần thiết không phải là trông chờ vào chiến thắng mà là chúng ta đã thi đấu hết mình".
* Ngọn lửa Olympic
Ngọn lửa Olympic đã được thắp sáng từ thời Olympic cổ đại. Ngọn lửa thiêng được thắp sáng trên đỉnh núi Olympia ở Hi Lạp bằng sức nóng của ánh sáng mặt trời và cháy liên tục cho tới ngày bế mạc Thế vận hội. Ngọn lửa Olympic xuất hiện lần đầu tiên tại Thế vận hội năm 1928 ở Amsterdam. Lửa thiêng biểu trưng cho sự trong sạch và nỗ lực vươn tới sự hoàn mỹ. Cuộc rước đuốc đầu tiên được tiến hành tại Thế vận hội 1936 theo sáng kiến của Chủ tịch ban tổ chức lúc đó là Carl Diem với ý nghĩa tiếp nối Olympic cổ đại với phong trào Olympic hiện đại. Ngày nay, ngọn lửa được một phụ nữ mang trang phục cổ đại lấy bằng một tấm gương cầu hội tụ ánh sáng mặt trời trên đỉnh Olympia. Ngọn lửa này sẽ được giữ cho đến ngày Đại hội kết thúc.
* Huy chương bằng vàng thật
Chiếc huy chương cuối cùng làm hoàn toàn bằng vàng thật được trao vào năm 1912.
* Huy chương
Các huy chương Olympic được thiết kế một cách đặc biệt cho mỗi kỳ Thế vận hội do Hội đồng thành phố đăng cai Thế vận hội quyết định. Mỗi huy chương phải có độ dày ít nhất 3 milimét và đường kính 60 milimét. Chiếc huy chương vàng và huy chương bạc phải có 92,5% bạc, riêng huy chương vàng phải có 6 gam vàng được mạ bên ngoài.
* Lễ khai mạc Olympic lần đầu tiên
Lễ khai mạc Olympic lần đầu tiên được tổ chức tại Thế vận hội năm 1908 ở Luân Đôn. Trước đó, các kỳ Thế vận hội không có lễ khai mạc.
* Thành phố, chứ không phải quốc gia
Khi chọn vị trí cho Thế vận hội, Ủy ban Olympic quốc tế (IOC) luôn dành danh dự này cho một thành phố chứ không phải là một quốc gia.
* Quán quân đầu tiên của Olympic hiện đại
James B. Connolly (Mỹ) giành chiến thắng trong ba môn phối hợp là nhảy hố, đi bộ và nhảy xa trở thành nhà quán quân đầu tiên của Thế vận hội hiện đại.
* Phụ nữ
Phụ nữ lần đầu tiên được phép tham dự vào năm 1900 trong Thế vận hội lần 2.
* Cuộc chạy Marathon đầu tiên
Năm 490 TCN, Pheidippides, một người lính Hy Lạp đã chạy từ Marathon đến Athens (dài khoảng 25 dặm) để thông báo về chiến thắng trước đội quân xâm lược Persians. Chặng đường này đầy núi đồi và những chướng vật đã khiến Pheidippides kiệt sức và chảy máu chân khi đến được Athens. Sau khi nói với mọi người trong thành phố về chiến thắng của họ, Pheidippides đã ngã lăn ra đất và chết. Năm 1896, tại kỳ Thế vận hội đầu tiên, người ta đã tổ chức một cuộc chạy đua với độ dài bằng chính độ dài quãng đường mà Pheidippides đã vượt qua.
* Hủy bỏ
Do chiến tranh thế giới lần I và II, Thế vận hội đã không được tổ chức vào các năm 1916, 1940 và năm 1944.
* Thế vận hội mùa đông
Thế vận hội mùa đông lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1924. Từ đây bắt đầu truyền thống về Thế vận hội mùa đông, được tổ chức ở tại một thành phố khác và sớm hơn vài tháng so với Thế vận hội mùa hè.
* Môn quần vợt bị ngăn cấm
Từ năm 1924 đến năm 1987, môn quần vợt bị ngăn cấm trong các kỳ Thế vận hội. Đến năm 1988, được cho phép chơi lại.
* Môn Polo
Môn Polo (môn cưỡi ngựa và dùng cái chày có cán dài đánh quả bóng vào trong cầu môn) xuất hiện trong các Thế vận hội năm 1900, 1908, 1920, 1924 và 1936.


B. GỢI Ý MỘT SỐ NỘI DUNG CẦN TẬP TRUNG KHI VIẾT THƯ DỰ THI UPU 41:
Đề tài UPU 41 năm nay yêu cầu thí sinh trình bày suy nghĩ của bản thân về những vấn đề xuất phát từ sự kiện thể thao quy mô nhất, được mọi người quan tâm theo dõi nhiều nhất trên trái đất. Đó là Thế vận hội OLYMPIC. Vấn đề chủ yếu ở đây không phải là bàn bạc về các môn thể thao thi đấu tại đại hội, nhưng là những vấn đề xã hội lớn lao xoay quanh việc tổ chức Thế vận hội: như tư tưởng xây dựng một thế giới hòa bình (mục đích khi sáng lập phong trào Olympic hiện đại), tinh thần đoàn kết- thân thiện giữa các dân tộc (lá cờ Olympic, các vận động viên hòa quyện vào nhau trong ngày bế mạc Thế vận hội…); tinh thần trung thực- cao thượng trong thi đấu (lời thề, ngọn lửa Olympic); mục tiêu tiến bộ toàn cầu theo phương châm “nhanh hơn, cao hơn- mạnh hơn” (citius- altius- fortius)…
Đối tượng gửi thư có thể là một vận động viên. Ví dụ:
- Mohamed Ali- huyền thoại Quyền anh người Mĩ- được các tạp chí thể thao quốc tế bầu chọn là “Vận động viên vĩ đại nhất thế kỉ XX” (vượt qua cả Pélé), đã từng đoạt HCV Olympic tại Roma. Nổi tiếng là người phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ tại Việt Nam;
- Pélé - được mệnh danh là “Vua bóng đá”- từng ba lần tham dự World Cup, đã đoạt danh hiệu Vô địch Thế giới, ghi được 1200 bàn thắng trong sự nghiệp cầu thủ của mình, từng giữ chức Bộ trưởng Thể thao trong bộ máy chính quyền Bra-xin;
- Michael Phels- vận động viên bơi lội lừng danh của Mĩ- từng đoạt 14 HCV tại hai kì Thế vận hội Athens 2004 và Bắc Kinh 2008;
- Yelena Isinbayava- nữ vận động viên nhảy sào Nga- người từng vượt qua mức xà 5 mét và đoạt 2 HCV Thế vận hội;
- Usain Bolt- vận động viên điền kinh Jamaica- được mệnh danh là “Hạt ngọc đen”, “Người chạy nhanh nhất hành tinh”, chuyên gia phá kỉ lục thế giới ở đường chạy cự li ngắn 100 mét, 200 mét, 4 x 100 mét;
- Trần Hiếu Ngân- vận động viên Judo Việt Nam- HCB Thế vận hội Sydney 2000- đây là thành tích cao nhất nước ta đạt được tại Thế vận hội…

Cũng có thể là những nhân vật thể thao mà mình ngưỡng mộ (Chủ tịch Ủy ban Olympic quốc tế IOC, các chủ tịch Ủy ban Olympic quốc gia NOC, các nhà tổ chức, quản lí, điều hành thi đấu; các huấn luyện viên; lực lượng y bác sĩ, trọng tài, tình nguyện viên...). Ví dụ:
- Nam tước Pierre de Coubertin- người Pháp- sáng lập viên của Thế vận hội Olympic hiện đại;
- Ngài Juan Antonio Samaranch- hiện là Chủ tịch Ủy ban Olympic quốc tế;
- Ông Nguyễn Danh Thái - Chủ tịch Ủy ban Olympic Việt Nam;
- Ông Sepp Blatter - Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá Thế giới FIFA;
- Ông Michel Platini - Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá Châu Âu EUFA, từng Vô địch châu Âu 1984…
Điều quan trọng các em cần hết sức lưu ý: Đây là bức thư văn học, nên bài viết phải giàu cảm xúc, hình ảnh. Tránh lối viết dễ dãi, sáo mòn. Kết thúc bức thư cần để lại ấn tượng đặc biệt về một vấn đề xã hội mà nhân loại cần quan tâm.

II. CƠ CẤU GIẢI THƯỞNG CUỘC THI UPU LẦN THỨ 41
Cấp quốc gia: (xem phần hướng dẫn của BTC cấp quốc gia)
Cấp thành phố: (không tổ chức chấm thi cấp TP)
Cấp quận: (chỉ tổ chức chấm các bài dự thi cấp quận của học sinh khối lớp 5)
Học sinh lớp 5 đạt giải UPU cấp quận sẽ được hưởng chế độ ưu tiên khi xét tuyển vào lớp 6 (Năm học 2012-2013)

III. YÊU CẦU CỦA CUỘC THI UPU LẦN THỨ 41
1. Về nội dung:
- Các ý tưởng trong bài dự thi cần xuất phát từ sự việc, câu chuyện và con người thật trong lịch sử các kì Thế vận hội OLYMPIC hoặc trong lĩnh vực TDTT. Cần đảm bảo tính chân thực.
- Thế vận hội OLYMPIC, sự kiện thể thao quy mô và trọng đại nhất trên hành tinh, được tổ chức bốn năm một lần, thu hút sự quan tâm theo dõi và nồng nhiệt chào đón của toàn nhân loại. Cần đặc biệt chú ý đến những giá trị nhân văn mà Thế vận hội mang đến cho toàn nhân loại (tư tưởng xây dựng một thế giới hòa bình; tinh thần đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc; tinh thần thượng võ; ý chí phấn đấu tiến bộ, vươn lên không ngừng...).
- Để nội dung bức thư phong phú; khi chọn người nhận thư, các em cần phải cân nhắc và tìm hiểu thật kĩ lưỡng các thông tin liên quan đến bản thân người đó qua các trang giới thiệu trên mạng Internet. Thao tác rất đơn giản: Mở GOOGLE  đánh tên nhân vật (vận động viên hoặc khuôn mặt thể thao nổi tiếng) cần tìm  các trang thông tin về nhân vật đó sẽ hiện lên  chọn đọc một vài trang để thu thập tư liệu cần thiết…
2. Về hình thức thể hiện:
- Hình thức thể hiện dưới dạng một bức thư nhưng nội dung cốt lõi là một vấn đề nghị luận xã hội (sự kiện Thế vận hội Olympic đối với cuộc sống nhân loại, đối với riêng bản thân người dự thi). Người viết thư là bản thân học sinh. Các em cần cân nhắc kĩ lưỡng khi chọn đối tượng nhận thư (gửi cho một vận động viên hoặc một nhân vật thể thao cụ thể mà mình hiểu biết rõ ràng: tên tuổi, quốc tịch, thành tích và sự nghiệp TDTT, những cống hiến cho xã hội ngoài lĩnh vực TDTT, điều mà mình học tập được từ những tấm gương trên…); từ đó các em cố gắng trình bày thật sâu sắc ý tưởng của mình về vai trò, ý nghĩa cao đẹp của Thế vận hội OLYMPIC nói chung và cụ thể là OLYMPIC LONDON 2012.
- Cần kết hợp nhiều phương thức biểu đạt (tự sự, miêu tả, biểu cảm…) để tăng sức thuyết phục cho bài dự thi (nhưng chủ yếu vẫn là phương thức biểu đạt nghị luận). Lí lẽ, dẫn chứng, lập luận là yếu tố quyết định chất lượng bài dự thi.
- Cần sáng tạo trong cách viết thư. CỐ GẮNG THOÁT RA KHỎI LỐI VIẾT THƯ THÔNG THƯỜNG.
3. Những quy định cần tuân thủ:
* Đối với đơn vị phát động cuộc thi (cấp trường):
- Nhà trường tổ chức lễ phát động thật trang trọng để giáo dục học sinh tinh thần cao đẹp của Thế vận hội Olympic (hòa bình- đoàn kết- hữu nghị- cao thượng- tiến bộ không ngừng…).
- GV Ngữ văn THCS và GV lớp 5 các trường TH cần dành thời gian nhất định (từ 1 đến 2 tiết) để định hướng khái quát cho học sinh cách thực hiện bài dự thi.
- BTC cấp trường cần thường xuyên tổ chức thẩm định và nhanh chóng gửi bài dự thi về Báo Thiêu niên Tiền phong (Địa chỉ: Số 05, Hòa Mã, Hà Nội). Khi gửi bài, chú ý thực hiện đúng yêu cầu quy định về việc dán tem.
- Gửi báo cáo tổng kết cuộc thi (riêng các trường Tiểu học, gửi kèm từ 05 đến 10 bản sao bài hay nhất) về Tổ PT trước ngày thứ hai 12/3/2012.
- Những bài không được chọn gửi về Bao Thiếu niên Tiền phong sẽ niêm phong và lưu giữ tại trường.
* Đối với học sinh tham gia cuộc thi:
- Viết tay đầy đủ phần lí lịch cá nhân đúng quy định.
- Bài viết không quá 800 từ (khoảng 3 trang A4) và chỉ viết trên một mặt giấy.
* Thời gian gửi bài dự thi:
Từ ngày phát động cuộc thi đến ngày 08/3/2012

IV. KẾ HOẠCH TỔ CHỨC CUỘC THI UPU LẦN THỨ 41 TẠI QUẬN GÒ VẤP
- Ngày thứ Sáu (10/11/2011):
+ Các trường nhận các văn bản hướng dẫn tổ chức cuộc thi UPU 41 trên mạng nội bộ của PGD-ĐT Gò Vấp; từ đó xây dựng kế hoạch cụ thể của đơn vị.
+ GVBM Ngữ văn THCS và GV khối 5 tự soạn thêm phần bổ sung cần thiết để nội dung hướng dẫn cụ thể, phong phú, đa dạng hơn.
- Ngày thứ Hai (28/11/2011):
+ Ban Giám Hiệu các trường Tiểu học & THCS tổ chức thật trang trọng lễ phát động cuộc thi UPU lần thứ 41 (vào tiết chào cờ đầu tuần).
+ Sau lễ phát động, các trường Tiểu học & THCS nộp kế hoạch và quyết định v/v thành lập Ban tổ chức cuộc thi UPU 41 tại đơn vị về Tổ PT (Người nhận: Đ/c Thịnh).
+ Sau lễ phát động, nhà trường tập trung ôn tập và chuẩn bị kiềm tra HK I.
- Trong ba tuần lễ từ ngày 26/12/2011 đến 07/01/2012:
+ Nhà trường giới thiệu sự kiện Thế vận hội OLYMPIC (sự ra đời, mục đích khi sáng lập, ý nghĩa lá cờ Olympic, lời thề Olympic, ý nghĩa ngọn lửa Olympic, châm ngôn phấn đấu của Thế vận hội “Citius, Altius, Fortius” (nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn), các môn thi đấu trong Thế vận hội, lịch sử các kì Thế vận hội, huy chương Thế vận hội, vv… qua pano hoặc các bảng tin trong nhà trường.
+ GVBM Ngữ văn THCS và GV lớp 5 phối hợp với GVBM Thể dục chọn thời gian thích hợp (khoảng từ 1 đến 2 tiết) trực tiếp hướng dẫn khái quát học sinh cách thể hiện bài dự thi (chú ý thực hiện thật nhẹ nhàng, không làm ảnh hưởng đến việc học tập chính khóa- ôn tập và kiểm tra HK 1 của các em).
- Từ 07/01/2012 đến 05/3/2012:
+ Học sinh thực hiện bài dự thi tại nhà. Em nào hoàn thành xong bài dự thi có thể nộp ngay cho Ban Tổ chức cấp trường (Hiệu trưởng phân công TPT nhận  GV thẩm định  ghi nhận lại họ tên học sinh/lớp trước khi gửi bài đi). Nếu là bài có ý tưởng mới lạ và cách diễn đạt độc đáo thì cần photocopy lưu lại bản sao.
+ Những bài tương đối tốt cần được gửi ngay về Báo Thiếu niên Tiền phong (khi gửi bài dự thi, cần thực hiện thật đúng yêu cầu quy định về việc ghi phong bì thư và dán tem).
+ Động viên các em có bài viết xuất sắc thực hiện bài dự thi thứ hai…
- Ngày thứ Hai (12/3/2012):
+ Các trường Tiểu học và THCS nộp về Tổ Phổ thông các hồ sơ sau:
1/ Số liệu thống kê học sinh dự thi từng khối lớp và toàn trường
2/ Danh sách học sinh có bài đã được BTC cấp trường chọn gửi về Báo Thiếu niên Tiền Phong (số 05, Hòa Mã, Hà Nội).
+ Riêng mỗi trường Tiểu học chọn từ 05 đến 10 bài hay nhất cấp trường dự thi cấp quận (chỉ gửi bản sao photocopy).
______________________
GỢI Ý ĐỂ THAM KHẢO:
Chương trình
PHÁT ĐỘNG CUỘC THI VIẾT THƯ QUỐC TẾ UPU 41 - NĂM 2012
1. Tuyên bố lí do – Giới thiệu đại biểu
2. Giới thiệu bài dự thi đoạt giải I Quốc gia lần thứ 40
3. Trưởng Ban Tổ chức cuộc thi viết thư UPU lần thứ 41 cấp trường (Hiệu Trưởng) phát động cuộc thi
4. (TPT Đội hoặc Bí thư Đoàn) công bố thể lệ cuộc thi, thành phần Ban Tổ chức cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 41 cấp trường, giới thiệu cơ cấu giải thưởng cấp trường, cấp quốc gia, quốc tế
5. Ban Giám khảo cấp trường (HPCM hoặc Tổ trưởng tổ Ngữ văn, Khối trưởng khối 5) gợi ý chủ đề cuộc thi viết thư UPU lần thứ 41
6. Giới thiệu bài hưởng ứng cuộc thi viết thư UPU lần thứ 41 (chọn 1 HS giỏi Văn và phân công GV hướng dẫn chuẩn bị trước)
7. Phát biểu của đại biểu ( nếu có)
8. Bế mạc
_______________________
(Học sinh viết tay ở góc phải phía trên giấy viết thư. KHÔNG NÊN IN SẴN)
Họ và tên:…………………………......Nam, nữ:…........
Ngày tháng năm sinh:………...…. Dân tộc:…….......
Học sinh lớp:..... Trường ...............………....… …….....
Địa chỉ trường: Số..... Đường...................... Phường......
Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh
BÀI DỰ THI VIẾT THƯ QUỐC TẾ UPU LẦN THỨ 41 (2012)
_____________________________________________________________________
(ghi ngoài phong bì của từng bài dự thi. PHẢI DÁN TEM THEO ĐÚNG QUY ĐỊNH)
Dự thi UPU 41 - 2012
Báo Thiếu niên Tiền phong, số 05, Hòa Mã, Hà Nội
___________________________________________________________________
* Trường Tiểu học chọn gửi từ 5  10 (bản sao) bài dự thi cấp quận của HS khối 5
DỰ THI UPU 41 - 2012 QUẬN GÒ VẤP
Trường Tiểu học………………………..
Số bài dự thi:…………………


V. GIỚI THIỆU BỨC THƯ ĐOẠT GIẢI I UPU LẦN THỨ 40 CẤP QUỐC GIA

Với đề tài "Hãy tưởng tượng mình là một cây sống trong khu rừng, em hãy viết thư cho một người nào đó để giải thích vì sao việc bảo vệ rừng là rất quan trọng", sau 5 tháng phát động, cuộc thi viết thư UPU Việt Nam năm nay nhận được 956.466 bài dự thi của các em học sinh (từ 15 tuổi trở xuống) trên khắp mọi miền đất nước.
Giải Nhất quốc gia năm nay thuộc về em Huỳnh Minh Hiếu (lớp 8/1, trường THCS Hoa Lư, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh). Bài viết hồn nhiên, đưa ra nhiều ý tưởng độc đáo. Em đã hóa thân thành "cây tùng" gửi thư cho ngài Joseph Sepp Blatter, Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá thế giới (FIFA). Với suy nghĩ thẳng thắn và chân thành, em khẳng định: "Bảo vệ rừng cũng giống như một trận chung kết bóng đá, một là thắng, hai là bại!". Từ đó, Huỳnh Minh Hiếu đặt ra nhiều giải pháp: "Vì sao ngài không cùng Hội đồng FIFA tổ chức một cuộc họp để mạnh dạn đưa ra quyết định quốc gia nào thực hiện tốt việc bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sẽ được đăng cai tổ chức World Cup? Ngài và các cộng sự có thể khuyến khích các đội tuyển quốc gia, các câu lạc bộ thay đổi màu áo, logo mang thông điệp bảo vệ rừng". Em hy vọng, với môn thể thao vua, có đông đảo người hâm mộ, nhất định việc tuyên truyền bảo vệ rừng có sức cuốn hút và được nhiều người hưởng ứng...
(Dưới đây là bức thư đoạt giải Nhất UPU 40 cấp Quốc gia của em Huỳnh Minh Hiếu)






Vì mục đích tốt đẹp và ý nghĩa thiết thực của cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 41, đề nghị Ban Giám hiệu các trường Tiểu học và THCS trên địa bàn quận Gò Vấp dựa theo kế hoạch chung để xây dựng kế hoạch riêng sao cho phù hợp với tình hình hình thực tế tại đơn vị. Từ đó, Hiệu trưởng phân công cụ thể một Đ/c trong BGH trực tiếp theo dõi đôn đốc, động viên học sinh toàn trường tích cực tham gia cuộc thi. Cần tổ chức thật nhẹ nhàng, tránh gây áp lực căng thẳng trong học sinh và không làm ảnh hưởng đến việc học tập- ôn tập- kiểm tra học kì I của các em.
BTC CUỘC THI UPU 41 QUẬN GÒ VẤP